Sạt lở tại Bắc Trung Bộ: Hiểm họa đâu chỉ tại ông trời
Cứ mỗi mùa mưa bão, Bắc Trung Bộ lại oằn mình với sạt lở núi, sạt lở bờ sông. Đau thương này đâu chỉ tại ông trời.
Khi đất yếu, thời tiết cực đoan
Địa hình Bắc Trung Bộ vốn phức tạp bậc nhất cả nước: hơn 70% diện tích là đồi núi, nền địa chất phong hoá mạnh, nhiều khu vực đất yếu, dốc lớn, các con sông ngắn, dốc, lưu lượng dòng chảy thất thường theo mùa. Khi mưa cực đoan xuất hiện, núi dễ “sụp”, sông dễ “ăn”, và con người dễ trở thành nạn nhân.
Theo số liệu từ Tổng cục Phòng chống thiên tai, chỉ trong 5 năm (2020-2025), khu vực Bắc Trung Bộ ghi nhận hơn 1.000 điểm sạt lở đất, trong đó hơn 300 điểm sạt lở lớn ở các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Trị và TP Huế. Riêng năm 2025, mưa lớn sau bão số 10 đã khiến gần 50 điểm sạt lở nghiêm trọng trên các tuyến quốc lộ 7, 15C, 48, 9, 71 chia cắt nhiều vùng miền núi.

Theo ông Nguyễn Văn Tuấn - Phó Giám đốc Sở Xây dựng Thanh Hóa, biến đổi khí hậu khiến lượng mưa cục bộ tăng mạnh, nhiều trận mưa chỉ trong 6-8 giờ đã đạt trên 300mm. “Trước đây, 10 năm mới có một trận mưa cực đoan, giờ năm nào cũng có. Đất dốc, nền yếu, rừng mất, chỉ cần một đêm mưa là có thể lở núi, sạt trượt khắp nơi”.
Báo cáo của cơ quan chức năng cũng chỉ ra, năm 2024 tại khu vực Nghệ An - Hà Tĩnh, cường độ xói mòn đất trung bình tăng từ 9-12% so với giai đoạn 2010–2020, trong khi độ che phủ rừng tự nhiên suy giảm gần 5%. Dòng chảy sông Lam, sông Chu, sông Mã, sông Thạch Hãn thay đổi mạnh sau lũ, nhiều đoạn bị khoét sâu thêm 3-5m mỗi năm, kéo theo hàng trăm héc-ta đất sản xuất bị cuốn trôi.

Rõ ràng, biến đổi khí hậu không còn là khái niệm xa vời, mà đã hiện hình bằng những mái đồi sụp xuống, những khúc sông ăn sâu vào làng. Nhưng thiên tai, dù dữ đến đâu, cũng chưa đủ sức tàn phá nếu con người không tiếp tay.
Khi con người “chặt chân núi để làm nhà”
Nếu sạt lở là “vết thương” của tự nhiên, thì chính con người đang làm nó nặng thêm mỗi ngày. Từ Thanh Hóa đến Huế, đâu đâu cũng thấy dấu vết của những can thiệp ngắn hạn, tạm bợ - những sai lầm nối dài của con người qua năm tháng.

Theo cơ quan chức năng, trong 10 năm qua, khu vực Bắc Trung Bộ mất hơn 20.000 ha rừng phòng hộ do khai thác và chuyển đổi mục đích sử dụng. Ở các xã thuộc huyện Quan Hóa, Mường Lát cũ (Thanh Hóa), Kỳ Sơn, Quế Phong cũ (Nghệ An), hàng loạt đồi trọc hiện ra sau khi rừng bị “bóc trần”. Khi không còn rễ cây giữ đất, chỉ một trận mưa cũng đủ biến sườn núi thành dòng bùn cuốn.
“Chúng tôi từng ghi nhận cảnh hàng trăm nghìn mét khối đất đá, chỉ trong vài phút đổ xuống, vùi nhà dân với không ít người bị chết” - đại diện Chi cục Thủy lợi Thanh Hóa nói.
Cùng lúc trên các con sông lớn, hoạt động khai thác cát sỏi diễn ra rầm rộ. Theo thống kê của Sở Nông nghiệp và Môi trường Nghệ An, riêng đoạn sông Lam từ Nam Đàn đến Hưng Nguyên hiện có hơn 40 điểm khai thác cát, trong đó gần 1/3 chưa được cấp phép hoặc khai thác vượt ranh giới. Lòng sông bị hạ thấp 1-2m mỗi năm, dòng chảy đổi hướng, bờ bị khoét, đất ruộng và nhà dân sụp xuống.

Ông Nguyễn Văn Minh - Bí thư Chi bộ thôn Minh Đức (xã Kim Bảng) - cho biết: “Cát thì được chở đi, nhưng ruộng, vườn của dân thì mất. Đào mãi, lòng sông thành vực, nước xiết ăn thẳng vào chân nhà”.
Ở Thanh Hóa, nạn khai thác cát trái phép gây sụt lún, sạt ở đất diễn ra nhiều dọc bờ sông Mã, sông Chu. Đã có nhiều đối tượng cộm cán sa lưới pháp luật nhưng nạn cát tặc ở tỉnh này vẫn luôn nhức nhối, bờ xôi ruộng mật hai bên sông vẫn bị cuốn xuống dòng nước.
Loạt bài điều tra của Lao Động mới đây cũng đã phản ánh nạn khai thác cát trái phép nhức nhối của các tỉnh Quảng Trị, Huế. Rõ ràng, vì lợi nhuận, các đối tượng khai thác trộm vẫn đang từng ngày tiếp tay cho thiên nhiên tàn phá.
Một nguyên nhân khác đến từ chính tập quán canh tác và sinh sống của người dân vùng cao. Ở nhiều xã miền núi Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, người dân vẫn quen dựng nhà ven chân núi hoặc sườn đồi, đốt nương làm rẫy, chặt cây để san nền.
Ông Ngô Hoàng Kỳ - nguyên Chánh Văn phòng UBND tỉnh Thanh Hóa - cho hay, nhiều năm đi công tác miền núi ông thấy cảnh khi nắng ráo, người dân dùng máy móc, chặt ngang chân núi để lấy đất dựng nhà, khi mưa lâu ngày, nước ngấm xuống đất sẽ tạo nên sạt trượt phần vỏ của núi rất nguy hiểm.
Bên cạnh đó, không ít khu tái định cư sau lũ lại được bố trí ngay dưới chân đồi mới sạt, thiếu kè chắn, không thoát nước. Cán bộ Sở Nông nghiệp và Môi trường Thanh Hóa thừa nhận, nhiều khi do yêu cầu tình huống, chúng ta mới chỉ di dời dân khỏi nơi nguy hiểm tức thời, chứ chưa tính đến an toàn lâu dài. Có nơi vừa tái định cư xong, năm sau lại sạt tiếp.
Thực tế, nhiều dự án kè, đê, kè sông được đầu tư dở dang do thiếu vốn, dẫn tới “vá chỗ này, thủng chỗ kia”. Theo Ban Chỉ huy PCTT Nghệ An, chỉ riêng khắc phục sạt lở bờ sông Lam cần hơn 2.000 tỉ đồng, nhưng ngân sách địa phương mới đáp ứng được chưa tới 20%.

Rõ ràng, thiên tai chỉ là phần nổi của tảng băng. Phần chìm - đáng sợ hơn - là cách con người phá vỡ cân bằng tự nhiên, xây - đào - chặt - khai thác tùy tiện.
Sạt lở đất ở Bắc Trung Bộ không còn là hiện tượng đơn lẻ, mà là hệ quả tổng hợp của biến đổi khí hậu và sự bất cẩn của con người. Nếu vẫn tiếp tục tư duy “chữa cháy”, chỉ vá víu sau mỗi mùa mưa, thì những thảm cảnh như Rào Trăng, Sa Ná, Mường Lát, sông Lam, sông Chu sẽ còn lặp lại - với cái giá ngày càng lớn hơn.
Muốn chấm dứt vòng luẩn quẩn ấy, cần một bản đồ theo dõi sạt lở đất chi tiết, khoa học; cần chiến lược tổng thể về quản lý đất đai, tài nguyên, quy hoạch dân cư vùng rủi ro, và khôi phục rừng phòng hộ.



