Xuất khẩu gạo: Xoay trục từ 'bán nhiều' sang 'bán giá trị'
Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu gạo chất lượng, xanh hóa sản xuất và tăng chế biến sâu nhằm giữ thị phần trong bối cảnh thị trường lúa gạo thế giới nhiều biến động.
Thị trường lúa gạo cuối năm trầm lắng
Những cập nhật tại Đồng bằng sông Cửu Long cuối tháng 12/2025 cho thấy thị trường lúa chững lại, giao dịch cuối vụ trầm lắng. Giá lúa OM 18 dao động 6.500 - 6.700 đồng/kg; IR 50404 5.500 - 5.600 đồng/kg; Đài Thơm 8 giữ mức 6.500 - 6.700 đồng/kg…

Giai đoạn 2025 –2026 được xem là một trong những niên vụ dư cung hiếm gặp nhất của nhiều thập kỷ. Ảnh minh họa
Các địa phương như Cần Thơ, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Cà Mau ghi nhận lượng lúa còn ít, nhu cầu thu mua yếu, giá ổn định. Giá gạo nguyên liệu xuất khẩu IR 504 quanh 7.600 - 7.700 đồng/kg; OM 5451 ở mức 8.150 - 8.300 đồng/kg; gạo thành phẩm IR 504 đạt 9.500 - 9.700 đồng/kg biến động không lớn so với đầu tháng.
Trên thị trường xuất khẩu, giá gạo Việt Nam đầu tháng 12 nằm tại nhóm trung bình cao, nhưng xu hướng giảm nhẹ xuất hiện khi cung thế giới tăng mạnh. Gạo thơm 5% tấm ghi nhận 420 - 460 USD/tấn, Jasmine 446 - 450 USD/tấn, mức thấp nhất kể từ cuối tháng 11/2025.
Tính đến 15/12, xuất khẩu gạo của Việt Nam đạt 7,67 triệu tấn, đạt 3,92 tỉ USD. Dù duy trì lượng hàng tốt, nhưng giá trị giảm mạnh do mặt bằng giá thế giới đi xuống. Việc Indonesia tuyên bố tạm ngừng nhập khẩu gạo vì nguồn cung nội địa dồi dào được đánh giá không tạo cú sốc lớn cho Việt Nam, bởi thị phần tại đây năm 2025 không đáng kể.
Tuy nhiên, diễn biến này phản ánh rõ ràng một xu thế các thị trường truyền thống có xu hướng siết nhập khẩu để hỗ trợ sản xuất trong nước, buộc các nhà xuất khẩu gạo phải mở rộng thị trường mới và nâng cao sức cạnh tranh bằng chất lượng, thay vì chỉ dựa vào giá.
Năm 2025, chỉ số giá gạo toàn cầu FAO (FARPI) giảm gần 20% so với năm trước đó, mức giảm mạnh nhất nhiều năm. Gạo trắng 5% tấm của Ấn Độ, loại có tính tham chiếu cao, rơi xuống 338 USD/tấn, thấp nhất trong nhiều năm. Gạo Thái Lan và Việt Nam dù giữ giá cao hơn nhưng vẫn chịu áp lực giảm liên tục do nguồn cung thế giới tăng mạnh và người mua thận trọng.
Giai đoạn 2025 - 2026 được xem là một trong những niên vụ dư cung hiếm gặp nhất của nhiều thập kỷ. FAO dự báo sản lượng gạo thế giới đạt 556,4 triệu tấn, tồn kho đầu kỳ lớn đẩy tổng cung lên 767,2 triệu tấn, cao nhất lịch sử. Trong đó, Ấn Độ trở thành trung tâm chi phối thị trường, sản lượng vượt 150 triệu tấn, đủ đáp ứng tiêu dùng nội địa và tạo dư địa xuất khẩu lớn. Nếu Chính phủ Ấn Độ tiếp tục tung kho dự trữ ra thị trường thông qua chương trình OMSS trong năm 2026, giá gạo thế giới dự kiến còn giảm mạnh.
Bên cạnh đó, đồng rupee yếu tạo lợi thế chi phí, khiến gạo Ấn Độ có giá cạnh tranh hơn so với Thái Lan và Việt Nam. Ấn Độ vì vậy trở thành “điểm neo giá” toàn cầu mới, tái định hình dòng chảy thương mại gạo từ châu Phi tới Nam Á. Châu Phi cận Sahara tiếp tục là khu vực có nhu cầu lớn nhất, dự kiến nhập gần 19,5 triệu tấn năm 2025, trong khi các nước Đông Nam Á, đặc biệt Indonesia và Philippines, có xu hướng kiểm soát nhập khẩu để hỗ trợ nông dân nội địa.
Trong bối cảnh này, Thái Lan và Pakistan phải giảm giá để giữ thị phần, Việt Nam dù giữ lợi thế ở phân khúc gạo thơm, chất lượng cao cũng không tránh khỏi áp lực điều chỉnh giá. Các chuyên gia dự báo giá có thể tiếp tục giảm trong quý I/2026 nếu không xuất hiện biến động lớn về thời tiết hay chính sách toàn cầu.
Xoay trục mạnh mẽ
Dù bối cảnh toàn cầu khó khăn, tín hiệu tích cực vẫn xuất hiện khi Philippines sẽ mở cửa nhập khẩu trở lại từ đầu năm 2026, lượng cấp phép giai đoạn đầu khoảng 500.000 tấn. Tuy nhiên, thuế nhập khẩu tăng từ 15% lên 20% từ 16/1/2026 và tổng lượng nhập cả năm giảm còn 3,6 - 3,8 triệu tấn, thấp hơn năm 2024 khoảng 1 triệu tấn. Điều đó cho thấy thị trường này mở nhưng cạnh tranh gay gắt, không còn dễ dàng như trước.
Doanh nghiệp vì vậy chuyển hướng chiến lược rõ rệt. Ông Nguyễn Văn Thành, Giám đốc Công ty TNHH Sản xuất Thương mại Phước Thành IV, cho biết, doanh nghiệp chia nguồn hàng sang nhiều thị trường mới như Trung Đông, châu Phi để giảm rủi ro phụ thuộc.
Gạo xanh, gạo giảm phát thải được dự báo là lợi thế cạnh tranh chủ lực của Việt Nam trong giai đoạn tới. Mô hình canh tác tiết kiệm nước, giảm CH4, truy xuất nguồn gốc sẽ giúp doanh nghiệp dễ tiếp cận các thị trường khó tính. Giống gạo ST25 tiếp tục được vinh danh “ngon nhất thế giới” mở không gian lớn cho phân khúc cao cấp tại Mỹ, châu Âu, Trung Quốc; gạo Japonica đẩy mạnh vào Nhật Bản. Nhiều doanh nghiệp cũng thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm chế biến sâu như bún, phở khô, cơm đóng hộp, những mặt hàng có giá trị cao hơn nhiều so với gạo thô.
Các chuyên gia cho rằng, việc chuyển đổi từ “bán lúa” sang “bán sản phẩm gạo hoàn chỉnh” là hướng đi tất yếu, tạo giá trị mới thay vì phụ thuộc giá thô bấp bênh. Đây cũng là bước đi phù hợp xu hướng kinh tế nông nghiệp thay thế tư duy sản xuất truyền thống.
“Ngành lúa gạo phải chuyển trọng tâm từ năng suất sang bền vững, đầu tư vùng nguyên liệu chuẩn hóa, sản xuất xanh, giảm phát thải theo xu thế tiêu thụ toàn cầu”, chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam Đỗ Hà Nam nhận định
Việt Nam trước bài toán giữ thị phần và nâng giá trị hạt gạo
Là “rốn lúa” của cả nước, Đồng bằng sông Cửu Long đang bước vào vụ Đông Xuân 2025 - 2026 với 446.000 ha đã xuống giống, tương đương 35% kế hoạch. Sản xuất tiếp tục duy trì ổn định, nhưng xuất khẩu năm 2025 giảm 13% về lượng và 29% về giá trị so với cùng kỳ. Điều này cho thấy lợi nhuận nông dân và doanh nghiệp đang bị bào mòn mạnh bởi cuộc đua giá toàn cầu, nhất là khi dư cung dự báo kéo dài đến hết 2026.

Việt Nam có lợi thế lớn nếu đẩy mạnh vùng nguyên liệu gạo chuẩn hóa, giảm phát thải, hướng đi hoàn toàn phù hợp khi thế giới ngày càng ưu tiên sản phẩm xanh. Ảnh: N.H
Tuy vậy, thị trường đang dần khởi động trở lại. Nhiều doanh nghiệp Philippines đã đặt hàng để chuẩn bị nguồn cung cho đầu năm mới; châu Phi, Trung Quốc cũng quay lại mua sau thời gian chững lại. Thái Lan vừa ký hợp đồng lớn 500.000 tấn với Trung Quốc, tạo tín hiệu tích cực cho thương mại gạo toàn cầu.
Trao đổi với phóng viên Báo Công Thương, chuyên gia nông nghiệp Hoàng Trọng Thủy cho rằng, điều quan trọng nhất hiện nay không chỉ là giữ sản lượng xuất khẩu, mà là giữ được biên lợi nhuận thông qua chất lượng, thương hiệu và chế biến sâu. Việt Nam có lợi thế lớn nếu đẩy mạnh vùng nguyên liệu chuẩn hóa, giảm phát thải, hướng đi hoàn toàn phù hợp khi thế giới ngày càng ưu tiên sản phẩm xanh. Cùng với đó, việc mở rộng thị trường ngoài ASEAN, đặc biệt châu Phi, Trung Đông, EU và Mỹ, sẽ quyết định sức bền của ngành trong chu kỳ dư cung sắp tới.
Cũng theo ông Hoàng Trọng Thủy, triển vọng năm 2026 không thiếu thách thức, nhưng dư địa phát triển của gạo Việt Nam vẫn rộng nếu chuyển hướng nhanh và đủ sâu. Từ vị thế quốc gia xuất khẩu lớn, mục tiêu mới không chỉ là bán gạo, mà là bán chất lượng, thương hiệu và hệ sinh thái giá trị gia tăng. Trong một thị trường dư cung kéo dài, kẻ dẫn dắt cuộc chơi không phải người có nhiều lúa nhất, mà là người biết bán hạt gạo với giá trị cao nhất.
Những ngày cuối tháng 12/2025, thị trường lúa gạo trong nước trầm lắng, giá ít biến động trong khi xuất khẩu chịu cạnh tranh mạnh do nguồn cung thế giới tăng kỷ lục. Trước áp lực dư cung và giá giảm, ngành lúa gạo Việt Nam đứng trước yêu cầu tái cấu trúc theo hướng nâng cao chất lượng, giảm phụ thuộc thị trường truyền thống, phát triển gạo xanh, giảm phát thải và đẩy mạnh chế biến sâu nhằm bảo toàn giá trị.



