Doanh nghiệp đang 'chuyển mình' theo các chuẩn mực trong EVFTA
Sau 5 năm thực thi, doanh nghiệp trong nước đã dần đáp ứng những tiêu chuẩn cao về môi trường, lao động và phát triển bền vững trong Hiệp định EVFTA.
Từ cam kết đến chuẩn mực phát triển bền vững
Sau 5 năm được thực thi, Hiệp định EVFTA đã chứng minh là một khuôn khổ hợp tác hiệu quả. Hiệp định đã củng cố lòng tin, thúc đẩy thương mại và mang lại lợi ích thiết thực cho cả hai phía.
Cùng với việc thúc đẩy thương mại song phương giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU), Hiệp định EVFTA cũng đã và đang thúc đẩy Việt Nam cải cách toàn diện, nâng chuẩn chất lượng để tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng của EU cũng như chuỗi cung ứng toàn cầu.
Đáng chú ý, theo lãnh đạo Vụ Chính sách thương mại và đa biên, Bộ Công Thương sau 5 thực thi Hiệp định EVFTA, các doanh nghiệp trong nước đã dần đáp ứng những tiêu chuẩn cao về môi trường, lao động và phát triển bền vững trong Hiệp định.
Việt Nam có nhiều chuyển biến mạnh mẽ trong hoàn thiện thể chế, nâng cao năng lực thực thi EVFTA, trong đó có cam kết về lao động, phát triển bền vững. Ảnh: Ngọc Hưng
Cụ thể, ông Lê Triệu Dũng, Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên, EVFTA là một hiệp định thế hệ mới, đặt ra các tiêu chuẩn cao về lao động, môi trường và phát triển bền vững. Đặc biệt, Chương 13 về Thương mại và Phát triển bền vững không chỉ yêu cầu các bên tuân thủ các chuẩn mực quốc tế, mà còn thiết lập cơ chế đối thoại, phối hợp và giám sát thực thi.
Trước những yêu cầu có tính ràng buộc cao này, Việt Nam đã có nhiều chuyển biến mạnh mẽ trong hoàn thiện thể chế, nâng cao năng lực thực thi và tăng cường hợp tác quốc tế, thể hiện rõ cam kết hội nhập nghiêm túc và có trách nhiệm.
Phân tích cụ thể, Vụ trưởng Lê Triệu Dũng cho rằng, trong triển khai thực thi các cam kết của Hiệp định, Việt Nam đã tham gia tích cực vào các cơ chế song phương - Ủy ban Thương mại và Phát triển bền vững - cơ quan giám sát để thực hiện Chương 13 trong EVFTA.
Các phiên họp của Ủy ban này được tổ chức định kỳ với sự tham gia của các bộ, ngành Việt Nam và đại diện EU. Tại đây, hai bên cùng rà soát tiến độ, cập nhật chính sách, thảo luận thẳng thắn về các chủ đề như lao động, môi trường, chống khai thác IUU, biến đổi khí hậu, Thỏa thuận Paris, bảo vệ rừng và động vật hoang dã.
Bên cạnh đó, các Diễn đàn chung về Thương mại và Phát triển bền vững được tổ chức bên lề các kỳ họp của Ủy ban này, tạo không gian đối thoại giữa DAG Việt Nam, DAG EU, các cơ quan quản lý và tổ chức xã hội. Hoạt động này giúp tăng cường minh bạch, đồng thuận và trách nhiệm trong thực thi các cam kết phát triển bền vững.
Đặc biệt, đối với Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) - một công cụ mới của EU sẽ chính thức áp dụng từ năm 2026. Thích ứng với cơ chế này, Việt Nam đã chủ động đánh giá tác động và đề xuất 4 nhóm giải pháp ứng phó về hoàn thiện cơ chế, chính sách; tuyên truyền, phổ biến thông tin; hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực thích ứng; thúc đẩy hợp tác, đàm phán quốc tế.
Vụ trưởng Lê Triệu Dũng cho rằng, Bộ Công Thương được giao làm đầu mối triển khai, đã phối hợp với các tổ chức quốc tế như Viện Phát triển Bền vững Quốc tế (IISD) để chuẩn bị về mặt kỹ thuật và truyền thông. Việc biên soạn tài liệu hướng dẫn và tổ chức phổ biến thông tin về CBAM cũng đang được Bộ tích cực thực hiện nhằm giúp doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa, giảm thiểu rủi ro gián đoạn thương mại khi quy định này có hiệu lực.
“Việt Nam đã và đang thể hiện nỗ lực và cam kết toàn diện, nghiêm túc trong việc thực hiện các nghĩa vụ phát triển bền vững theo EVFTA. Đây không chỉ là yêu cầu hội nhập, mà còn là động lực thúc đẩy quá trình chuyển đổi xanh, công bằng và bền vững trong dài hạn” - Vụ trưởng Lê Triệu Dũng chia sẻ.
Chủ động hơn nữa để nắm bắt cơ hội
Cũng theo Vụ Chính sách thương mại và đa biên, mặc dù nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam về Hiệp định EVFTA đã có những cải thiện tích cực trong thời gian qua, song nhìn chung mức độ hiểu biết vẫn còn hạn chế.
Theo kết quả khảo sát trong khuôn khổ xây dựng Bộ chỉ số đánh giá thực thi FTA tại các địa phương năm 2024 (FTA Index 2024), chỉ 35,9% doanh nghiệp cho biết họ đã biết đến EVFTA và chỉ 13,6% thực sự hiểu rõ nội dung của Hiệp định.
Điều này phản ánh một rào cản quan trọng trong quá trình khai thác và tận dụng các ưu đãi đối với một hiệu định có tiêu chuẩn cao và toàn diện. Đặc biệt, phần lớn doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn chưa có sự chủ động trong việc tiếp cận và tìm hiểu thông tin liên quan đến các cam kết trong các FTA nói chung, bao gồm cả EVFTA.
Nhiều doanh nghiệp chưa thực sự coi trọng các nguồn thông tin chính thức được cơ quan quản lý nhà nước cung cấp thông qua hội nghị, khóa tập huấn hay tài liệu phổ biến. Việc tìm hiểu thông tin thường chỉ diễn ra khi phát sinh vấn đề cụ thể trong quá trình xuất nhập khẩu, lúc đó doanh nghiệp mới liên hệ với cơ quan chức năng để được hỗ trợ, giải quyết thì quá trình xử lý đã trở lên phức tạp hơn nhiều.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn chưa chủ động tìm hiểu, thực thi các cam kết trong EVFTA. Ảnh: Minh Thắng
Theo định hướng của Đảng, Nhà nước, Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng 8% trong năm 2026 và tăng trưởng 02 con số trong giai đoạn 2026-2030. Đây là mục tiêu tham vọng, thể hiện quyết tâm lớn của toàn bộ hệ thống chính trị.
Đối với nền kinh tế có độ mở cao của Việt Nam, ngành xuất khẩu sẽ tiếp tục đóng vai trò là một trong những cấu phần quan trọng nhất đóng góp vào tăng trưởng trong những năm tiếp theo, trong đó EU sẽ tiếp tục đóng vai trò là một trong những thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.
Do đó, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục triển khai đồng bộ, nhiều giải pháp để nâng cao hiệu quả thực thi Hiệp định EVFTA. Đồng thời thúc đẩy doanh nghiệp nhỏ và vừa khai thác sâu hơn chuỗi giá trị với các đối tác EU như tăng cường xúc tiến thương mại chuyên sâu thị trường EU, phát triển nguồn nhân lực và thúc đẩy chuyển đổi số, cải cách thủ tục hành chính, tăng cường xúc tiến đa phương và kết nối chuỗi giá trị toàn cầu...
Trong giai đoạn 2020 - 2024, kim ngạch thương mại hai chiều giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU) đã tăng trưởng đáng kể, đạt mức tăng 46,5%, với tổng giá trị hơn 64,6 tỷ USD - tăng so với con số 44,1 tỷ USD trong giai đoạn 5 năm trước đó.
Cụ thể, xuất khẩu từ Việt Nam sang EU ghi nhận mức tăng mạnh 56,4%, từ 31,1 tỷ USD lên gần 48,7 tỷ USD. Trong khi đó, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa từ EU vào Việt Nam cũng tăng nhẹ 13%, từ 14 tỷ USD lên khoảng 15,9 tỷ USD.