A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Mở rộng thị phần xuất khẩu cao su sang EU: Cần trợ lực về chính sách

Truy xuất nguồn gốc, tính bền vững của sản phẩm đang là thách thức đặt ra đối với xuất khẩu cao su sang thị trường EU và đòi hỏi những trợ lực về chính sách.

EU chiếm khoảng 7,4% tổng kim ngạch xuất khẩu cao su của Việt Nam

Theo số liệu thống kê của Cục Hải quan Việt Nam, 5 tháng năm 2025, xuất khẩu cao su đạt 550,14 nghìn tấn, trị giá 1,04 tỷ USD, giảm 4,1% về lượng, nhưng tăng 21,7% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024. 5 tháng năm 2025, giá bình quân cao su xuất khẩu đạt 1.905 USD/tấn, tăng 26,9% so với cùng kỳ năm 2024. Giá cao su thế giới phục hồi và duy trì ở mức tốt, giúp Việt Nam tăng kim ngạch xuất khẩu.

Thị trường EU tiếp tục giữ vai trò chiến lược của cao su Việt Nam. Ảnh minh họa

Thị trường EU tiếp tục giữ vai trò chiến lược của cao su Việt Nam. Ảnh minh họa

Theo Hiệp hội Cao su Việt Nam, ngành cao su Việt Nam đóng vai trò then chốt trong xuất khẩu nông sản, với tổng kim ngạch xuất khẩu của hai nhóm mặt hàng chính là cao su thiên nhiên và sản phẩm cao su duy trì ở mức 7 – 8 tỷ USD mỗi năm. Thị trường EU tiếp tục giữ vai trò chiến lược, chiếm khoảng 7,4% tổng kim ngạch xuất khẩu của hai mặt hàng này, trong đó 95% là từ nhóm sản phẩm cao su có giá trị gia tăng cao.

Lượng cao su tự nhiên xuất khẩu vào thị trường EU nhỏ, chiếm trung bình 3 - 4% trong tổng lượng cao su tự nhiên Việt Nam xuất khẩu vào tất cả các thị trường. Tuy EU chưa phải là thị trường quan trọng nhất của Việt Nam về cao su tự nhiên nhưng lượng xuất khẩu vào thị trường này có mức tăng trưởng tốt vào năm 2024 trong khi tổng lượng xuất khẩu sang các thị trường còn lại giảm nhẹ.

Điều này phản ánh xu hướng chuyển dịch thị trường của Việt Nam trong bối cảnh thích ứng với các yêu cầu mới như Quy định chống mất rừng của EU (EUDR), đồng thời cũng khẳng định vai trò ngày càng rõ nét của EU trong chuỗi giá trị xuất khẩu bền vững của ngành cao su Việt Nam.

Với mặt hàng sản phẩm cao su, EU là thị trường chiến lược của Việt Nam, với kim ngạch xuất khẩu của nhóm mặt hàng này từ EU đạt khoảng 450 – 470 triệu USD mỗi năm, chiếm 9- 10% trong tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm mặt hàng này vào tất cả các thị trường.

Các sản phẩm xuất khẩu vào EU chủ lực bao gồm lốp xe, găng tay y tế và linh kiện cao su kỹ thuật, trong đó kim ngạch từ lốp xe chiếm hơn 70% trong tổng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm cao vào EU.

Cần những trợ lực về chính sách

Liên minh châu Âu (EU) ban hành quy định EUDR vào năm 2023 và sẽ có hiệu lực vào đầu 2026. Bảy mặt hàng nông lâm sản, bao gồm cao su, nhập khẩu vào EU phải đáp ứng được tất cả các quy định của quốc gia sản xuất, từ khâu sản xuất tới khâu xuất khẩu và đảm bảo quá trình sản xuất không gây tổn hại tới nguồn tài nguyên rừng.

Theo Hiệp hội Cao su Việt Nam, chuỗi cung ứng hiện tại của ngành cao su Việt Nam tương đối phức tạp, với 63% cao su nguyên liệu có nguồn gốc từ hộ tiểu điền và 37% còn lại từ diện tích đại điền. Các con số này chưa bao gồm lượng cung nhập khẩu với lượng nhập tương đương với lượng cung trong nước.

Vì vậy, việc đáp ứng EUDR cần được triển khai đồng bộ ngay từ đầu chuỗi, nơi các hộ tiểu điền và đại lý thu mua đóng vai trò then chốt trong việc cung cấp thông tin phục vụ việc truy xuất và bảo đảm tính hợp pháp của nguồn nguyên liệu đầu vào.

Tuy nhiên, khả năng đáp ứng EUDR của các doanh nghiệp trong ngành rất khác nhau, phụ thuộc vào thực trạng chuỗi cung, bao gồm nguồn nguyên liệu đầu vào, năng lực vận hành và quản lý chuỗi, và các nguồn lực của doanh nghiệp.

Các doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp nhà nước có lợi thế về khả năng truy xuất, nhờ có nguồn cung đơn giản và có nguồn lực đầu tư vào hệ thống truy xuất. Trong khi đó, doanh nghiệp tư nhân gặp khó khăn hơn do chuỗi cung phức tạp bởi nguồn cung chủ yếu là từ các diện tích tiểu điền và do hạn chế về nguồn lực đầu tư.

Ở khâu đầu của chuỗi, các hộ tiểu điền đóng vai trò quan trọng, là nguồn cung chủ yếu về nguyên liệu cho ngành. Tuy nhiên, các hộ này sẽ đối mặt với nhiều trở ngại nhất trong việc đáp ứng EUDR do các hoạt động vẫn mang đậm nét theo thói quen, phi chính thức. Ngoài ra các hộ vẫn chưa tiếp cận được với thông tin về các yêu cầu hợp pháp và bền vững. Các yếu tố này không cho phép thực hiện các hoạt động truy xuất.

Trao đổi với phóng viên Báo Công Thương, ông Tô Xuân Phúc – chuyên gia phân tích chính sách Tổ chức Forest Trends cho hay, nhìn chung, các chuỗi cung hiện tại của ngành hầu hết chưa đáp ứng được EUDR. Những rào cản lớn nhất hiện nay bao gồm thiếu bản đồ số vùng trồng, hồ sơ pháp lý của đất đai, tính phi chính thức của giao dịch trong chuỗi, đặc biệt giữa khâu nông hộ và đại lý, và năng lực công nghệ hạn chế.

Theo ông Phúc, những chuyển động của thị trường quốc tế trong những năm gần đây cho thấy các yêu cầu truy xuất nguồn gốc là xu hướng bắt buộc trong tương lai, không chỉ dừng ở thị trường EU.

Ngành cao su Việt Nam cần nhận thức rõ về xu hướng này, từ đó đưa ra các biện pháp can thiệp nhằm thay đổi chuỗi cung hiện nay, cả ở góc độ các chính sách và hoạt động sản xuất kinh doanh theo hướng đáp ứng được các yêu cầu và xu hướng thị trường. Điều này đòi hỏi nỗ lực của tất cả các bên tham gia, bao gồm các cơ quan quản lý, Hiệp hội, doanh nghiệp và đặc biệt là các hộ tiểu điền. 

Để duy trì và mở rộng thị phần tại EU, theo ông Tô Xuân Phúc, điều này đòi hỏi các hỗ trợ kỹ thuật và tài chính đặc biệt dành cho doanh nghiệp tư nhân, đại lý và hộ tiểu điền. Ngoài ra, ngành cũng cần phát triển nền tảng truy xuất quốc gia dùng chung; thúc đẩy hợp tác công – tư (PPP) và kết nối với các thị trường xuất khẩu trọng điểm như Trung Quốc, Mỹ và EU. Việc thực hiện các giải pháp này sẽ không chỉ giúp ngành cao su đáp ứng EUDR mà còn giúp nâng cao năng lực cạnh tranh cho ngành trên trường quốc tế.

Để nâng cao khả năng tuân thủ của doanh nghiệp ngành cao su Việt Nam với các quy định mới từ EU, đặc biệt là EUDR, cần có các chính sách hỗ trợ khác nhau được xây dựng phù hợp theo từng nhóm doanh nghiệp. Chính sách và nguồn lực cho thực thi chính sách cần thiết kế theo lộ trình, bao gồm các chính sách ngắn, trung và dài hạn. Điều này sẽ giúp tối ưu nguồn lực và phù hợp với thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và các bên tham gia chuỗi hiện nay.

Việt Nam cần tăng cường hợp tác khu vực giữa các quốc gia sản xuất cao su để cùng kiến nghị với EU về một cơ chế chuyển tiếp phù hợp cho ngành cao su, có thể kéo dài 2 – 3 năm và đảm bảo tính đến đặc thù của khu vực Đông Nam Á, cho phép doanh nghiệp có thời gian điều chỉnh hệ thống truy xuất mà không mất thị trường. Việc làm rõ yêu cầu và lộ trình thực hiện với đối tác EU cũng là yếu tố then chốt để đảm bảo ổn định cho toàn ngành trong giai đoạn chuyển đổi.


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Tin liên quan
Đang chờ cập nhật