A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Chế biến sâu tre, luồng: Hướng thoát nghèo cho bà con xứ Thanh

Việc chế biến sâu tre, luồng thành những sản phẩm có giá trị cao đang đã và đang giúp người dân ở vùng sâu, vùng xa của tỉnh Thanh Hóa thoát nghèo.

Mô hình phát triển kinh tế hiệu quả

Thanh Hóa từ lâu đã được biết đến như “thủ phủ” của tre, luồng, loài cây phủ xanh dày đặc trên những cánh rừng miền núi phía Tây của tỉnh. Loài cây này đang trở thành “vàng xanh” góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo cho rất nhiều hộ dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số.

Đáng nói, mô hình phát triển kinh tế từ tre, luồng trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá đã thay đổi đáng kể, trong đó chế biến sâu loại cây này thành sản phẩm giá trị cao đã mang lại sinh kế bền vững cho người dân miền núi.

Thanh Hoá có diện tích tre, luồng lớn nhất cả nước. Ảnh minh hoạ

Thanh Hoá có diện tích tre, luồng lớn nhất cả nước. Ảnh minh hoạ 

Theo đại diện Sở Công Thương Thanh Hoá, trước đây, phần lớn tre, luồng chỉ được tiêu thụ ở dạng thô hoặc sơ chế, giá trị thu về thấp. Bình quân thu nhập từ cây luồng chỉ đạt 7 - 9 triệu đồng/ha/năm, nhiều diện tích bị khai thác tự phát, thoái hóa dần. Nhưng với định hướng phát triển kinh tế lâm nghiệp gắn với chế biến sâu, bức tranh ấy đang dần thay đổi.

Hiện toàn tỉnh có gần 60 cơ sở chế biến tre, luồng, nhiều doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư công nghệ hiện đại, như cắt, chẻ, vót, ép, hấp sấy, xử lý chống mối mọt. Nhờ vậy, sản phẩm tre luồng ngày càng đa dạng và chất lượng cao hơn. Từ những chiếc ống hút tre, muỗng, thìa, bàn chải, hộp đựng, khay trang trí cho đến bàn ghế, đồ nội thất cao cấp, sản phẩm đã đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe của thị trường trong và ngoài nước.

Điển hình là Công ty TNHH Vibabo, đơn vị mỗi năm ký kết hợp đồng xuất khẩu hàng chục triệu ống hút tre, bộ dụng cụ ăn, nội thất tre ép sang châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc, doanh thu đạt 3- 4 tỷ đồng/năm. Đặc biệt, sản phẩm đạt chứng chỉ FSC, ISO, chứng nhận CE châu Âu… đã khẳng định thương hiệu “Made in Vietnam” bằng chất liệu truyền thống nhưng phong cách hiện đại.

Không chỉ doanh nghiệp, các hợp tác xã địa phương cũng trở thành “hạt nhân” tạo giá trị gia tăng. Hợp tác xã chế biến lâm sản Sông Mã (xã Hồi Xuân) hiện có 140 thành viên chính thức, hàng trăm thành viên liên kết, doanh thu hàng chục tỷ đồng mỗi năm. Hay Hợp tác xã Hợp Phát (xã Phú Nghiêm) tiêu thụ khoảng 15.000 tấn luồng/năm, sản xuất hơn 5.500 tấn giấy, vàng mã xuất khẩu sang Đài Loan (Trung Quốc), với giá trị gần 6 triệu USD. Hợp tác xã này hiện tạo việc làm cho hơn 170 lao động địa phương với thu nhập bình quân từ 7,5 - 25 triệu đồng/tháng.

Chế biến sâu tre, luồng giúp người dân vùng sâu vùng xã của tỉnh Thanh Hoá tăng thu nhập. Ảnh minh hoạ

Chế biến sâu tre, luồng giúp người dân vùng sâu vùng xã của tỉnh Thanh Hoá tăng thu nhập. Ảnh minh hoạ 

Người dân cũng thay đổi cách nghĩ, cách làm. Gia đình ônng Vi Hồng Nghị ở xã Đồng Lương sau khi tham gia mô hình trồng luồng theo chuẩn FSC, được hỗ trợ phân bón, giống, kỹ thuật, thu nhập của gia đình tăng lên khoảng 30 triệu đồng/ha/năm. Còn chị Phạm Thị Hoa, thành viên Hợp tác xã Hợp Phát, chia sẻ, trước kia tôi chỉ đan lát ở nhà, thu nhập bấp bênh. Nay làm việc trong hợp tác xã, mỗi tháng có hơn 8 triệu đồng, lại học thêm nghề mới, cuộc sống ổn định hơn.

Phấn đấu xây dựng ngành hàng bền vững

Thanh Hóa hiện có diện tích tre, luồng lớn nhất cả nước khoảng 128.000 ha. Bình quân mỗi năm, tỉnh cung cấp khoảng 60 triệu cây luồng (tương đương 1,6 triệu tấn nguyên liệu) và 80.000 tấn nguyên liệu khác phục vụ chế biến, xuất khẩu. Đây là nguồn lực khổng lồ để phát triển ngành hàng tre, luồng trở thành trụ cột kinh tế vùng miền núi.

Nhận thức rõ tiềm năng, tỉnh Thanh Hóa đã và đang triển khai nhiều chính sách hỗ trợ. Trước hết là chính sách khôi phục rừng luồng, phát triển thâm canh. Theo đó, địa phương hỗ trợ kinh phí mua phân bón 2 triệu đồng/ha/năm trong 2 năm đầu, hướng dẫn kỹ thuật trồng, chăm sóc, khai thác. Đồng thời, tỉnh khuyến khích cấp chứng chỉ rừng FSC, gắn sản xuất với chế biến và xuất khẩu.

Song song đó, chính quyền và Liên minh Hợp tác xã tỉnh đẩy mạnh hỗ trợ vốn, tập huấn kỹ thuật, xúc tiến thương mại, kết nối thị trường. Giai đoạn 2023 - 2025, có 22 hợp tác xã nông nghiệp được đầu tư phát triển hạ tầng, chế biến sản phẩm với tổng vốn 55,2 tỷ đồng từ ngân sách Trung ương. Một số dự án đã hoàn thành, đi vào hoạt động và phát huy hiệu quả rõ rệt.

Tre, luồng được chế biến thành sản phẩm có giá trị cao. Ảnh minh hoạ

Tre, luồng được chế biến thành sản phẩm có giá trị cao. Ảnh minh hoạ

Hạ tầng giao thông đến vùng nguyên liệu cũng được quan tâm đầu tư, tạo thuận lợi cho thu hoạch, vận chuyển, giảm chi phí sản xuất. Bên cạnh đó, chính quyền khuyến khích doanh nghiệp đưa sản phẩm lên sàn thương mại điện tử như Shopee, Lazada, Alibaba, Amazon… mở rộng kênh tiếp cận thị trường, nhất là quốc tế.

Đến hết năm 2025, Thanh Hóa phấn đấu 85% sản phẩm tre luồng tiêu thụ trong nước, 15% xuất khẩu; đến năm 2030, tỷ lệ này lần lượt là 75% và 25%. Rõ ràng, địa phương đang coi cây tre, luồng không chỉ là kế sinh nhai của đồng bào dân tộc thiểu số mà còn là “ngành công nghiệp xanh” gắn với phát triển bền vững và hội nhập toàn cầu.

Theo ông Lê Xuân Lâm, Giám đốc Công ty Vibabo, nhìn nhận, không chỉ mang lại lợi ích kinh tế, sản xuất tre, luồng còn góp phần bảo vệ môi trường. Với đặc tính phân hủy sinh học, thay thế nhựa dùng một lần, sản phẩm tre luồng đang được thế giới ưa chuộng như một giải pháp xanh.

Là địa phương có diện tích tre, luồng lớn nhất cả nước, Thanh Hoá đang chú trọng chế biến sâu, đa dạng kênh tiêu thụ nhằm khai thác dâu hơn giá trị kinh tế của loại cây này.


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Tin liên quan
Đang chờ cập nhật