A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Chuyển dịch năng lượng mở cơ hội mới cho công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

Chuyển dịch năng lượng toàn cầu mở ra cơ hội để Việt Nam vươn lên chuỗi giá trị năng lượng, phát triển công nghiệp hỗ trợ và làm chủ công nghệ trong nước.

Tỷ lệ nội địa hóa của Việt Nam vẫn thấp

Chia sẻ tại toạ đàm “Mở hướng đi mới cho công nghiệp hỗ trợ ngành năng lượng” do Tạp chí Công Thương tổ chức ngày 3/11, ông Chu Việt Cường - Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ phát triển công nghiệp, Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương) cho biết, hiện nay trong các dự án năng lượng, đặc biệt là điện gió, điện mặt trời, thủy điện và nhiệt điện, tỷ lệ nội địa hóa đã có chuyển biến rõ rệt, nhưng chưa đạt được kỳ vọng như Chính phủ mong muốn.

Chuyển dịch năng lượng mở cơ hội mới cho công nghiệp hỗ trợ Việt Nam - 1

Nêu cụ thể, ông Cường chỉ ra, trong lĩnh vực điện gió, Việt Nam mới chỉ nội địa hóa được khoảng 25 - 30% giá trị thiết bị, chủ yếu ở các hạng mục như: Móng trụ, kết cấu thép, cọc, tháp turbine và hệ thống đấu nối. Một số doanh nghiệp trong nước như CS Wind, TOMECO, Lilama, Thiết bị điện Đông Anh EEMC đã có khả năng sản xuất và cung cấp các thiết bị, linh kiện đạt tiêu chuẩn quốc tế.

Trong năng lượng mặt trời, tỷ lệ nội địa hóa đạt khoảng 35 - 40%, tập trung vào sản xuất khung giá đỡ, dây dẫn, tủ điện, inverter và một phần module PV. Việt Nam hiện là nhà sản xuất pin năng lượng mặt trời đứng trong Top 10 thế giới, với sự tham gia của các doanh nghiệp như Boviet Solar, IREX Solar, Vina Solar… Tuy nhiên, chuỗi giá trị vật liệu bán dẫn, wafer, cell vẫn phụ thuộc vào nhập khẩu.

Ông Chu Việt Cường nhìn nhận, những kết quả trên là tín hiệu tích cực, nhưng cũng cho thấy tỷ lệ nội địa hóa của Việt Nam vẫn thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực, như Thái Lan (60 - 65%) hay Malaysia (55 - 60%) trong lĩnh vực năng lượng tái tạo. “Nguyên nhân là do hạn chế về tài chính, công nghệ và trang thiết bị hiện đại. Đặc biệt, nguồn nhân lực chất lượng cao của ngành đang còn thiếu rất nhiều. Một hạn chế nữa là rào cản về kỹ thuật “cản” các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ ngành năng lượng có thể tham gia vào chuỗi cung ứng của toàn cầu”- ông Chu Việt Cường nêu cụ thể.

Đề cập vấn đề này, TS. Vũ Văn Khoa - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Cơ khí, phân tích thẳng thắn: Hiện có khoảng hơn 2.000 doanh nghiệp hoạt động trong công nghiệp hỗ trợ năng lượng, nhưng chỉ khoảng 300 doanh nghiệp tham gia được một phần vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Các doanh nghiệp trong nước vẫn chủ yếu thực hiện ở các công đoạn giá trị gia tăng thấp, các cấu phần đơn giản, trong khi các cấu phần cốt lõi (tuabin, máy phát, hệ thống điều khiển…) phần lớn vẫn phải nhập khẩu.

Trong khi đó, ở góc độ doanh nghiệp trực tiếp triển khai dự án thủy điện, ông Lê Văn An - Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp cơ khí Việt Nam, Chủ tịch HĐQT Tổng Công ty Cơ điện Xây dựng - CTCP (Agrimeco), nhấn mạnh Agrimeco đã làm chủ thiết kế, thi công, lắp đặt nhiều thiết bị thủy điện chủ lực, tiết kiệm hàng nghìn tỷ đồng chi phí cho dự án. Tuy nhiên, ông cũng thẳng thắn cảnh báo tình trạng nhà đầu tư chỉ nặng về tiêu chí giá, đánh giá chưa đúng năng lực kỹ thuật, dẫn đến cạnh tranh phá giá và rủi ro chất lượng.

Công nghiệp hỗ trợ - cấu phần then chốt của ngành năng lượng

Tại thời điểm này trong bối cảnh chuyển dịch năng lượng toàn cầu, nhu cầu phát triển năng lượng sạch - năng lượng tái tạo, cùng lộ trình giảm dần các nguồn năng lượng hóa thạch đang đặt Việt Nam trước cơ hội lớn để bước lên nấc thang cao hơn trong tham gia chuỗi giá trị năng lượng. Theo đó, công nghiệp hỗ trợ trở thành cấu phần then chốt, quyết định khả năng làm chủ công nghệ, nâng tỷ lệ nội địa hóa, nâng giá trị gia tăng trong ngành năng lượng.

Công nghiệp hỗ trợ ngành năng lượng còn nhiều dư địa để phát triển.

Công nghiệp hỗ trợ ngành năng lượng còn nhiều dư địa để phát triển.

Ông Trần Kiên Dũng - Chuyên gia ILO, Giám đốc Công ty TNHH ProfM Việt Nam cho rằng, muốn phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành năng lượng cần có 3 ba trụ cột quyết định khả năng thành công của doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ.

Thứ nhất là năng lực quản trị  đòi hỏi doanh nghiệp phải có tầm nhìn chiến lược dài hạn, thiết lập hệ thống quản trị hiệu quả, cùng kế hoạch phát triển ngắn, trung và dài hạn để vận hành ổn định, đạt mục tiêu đề ra.

Thứ hai là năng lực công nghệ có khả năng tiếp cận, làm chủ và nâng hàm lượng công nghệ trong sản phẩm, qua đó gia tăng giá trị trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

Thứ ba là nguồn nhân lực yếu tố sống còn bảo đảm mọi hệ thống quản trị và công nghệ vận hành hiệu quả. Không có nhân lực chất lượng cao, sẽ không thể có doanh nghiệp mạnh.

Theo đó, doanh nghiệp Việt Nam muốn bứt phá cần đầu tư đồng bộ vào ba trụ cột: Quản trị, công nghệ và con người để nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững”- ông Trần Kiên Dũng nhấn mạnh.

Theo TS. Vũ Văn Khoa, để doanh nghiệp Việt Nam tham gia sâu vào chuỗi công nghiệp hỗ trợ cho ngành năng lượng, cần tập trung vào 4 yếu tố trọng tâm.

Thứ nhất, Chính phủ và các bộ, ngành cần ban hành sớm hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật cho thiết bị năng lượng và linh kiện cơ khí trong nước, tạo cơ sở pháp lý để sản phẩm Việt có thể được sử dụng trong các dự án. Đồng thời, cần quy định tỷ lệ nội địa hóa bắt buộc, hình thành dung lượng thị trường đủ lớn để doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư.

Thứ hai, đơn giản hóa thủ tục, rút ngắn quy trình phê duyệt sản phẩm đạt chuẩn, giúp doanh nghiệp nhanh chóng thương mại hóa kết quả nghiên cứu, đổi mới sáng tạo.

Thứ ba, tăng cường hỗ trợ tài chính thông qua các quỹ đổi mới sáng tạo, mở rộng quỹ đất phát triển trung tâm R&D, đặc biệt với các doanh nghiệp, viện nghiên cứu đạt chuẩn quốc tế trong lĩnh vực năng lượng.

Thứ tư, cần đẩy mạnh liên kết giữa doanh nghiệp trong nước và FDI, thúc đẩy chuyển giao công nghệ, đồng thời quy hoạch các cụm công nghiệp chế tạo năng lượng tại các vùng có lợi thế như Bình Thuận, Ninh Thuận, Bà Rịa – Vũng Tàu để giảm chi phí logistics và nâng sức cạnh tranh.

Về phía doanh nghiệp, cần tập trung nguồn lực vào sản phẩm có thị trường lớn, đầu tư nâng cấp công nghệ, máy móc, quản trị và nhân lực. Doanh nghiệp phải tuân thủ chuẩn công nghiệp xanh, chứng chỉ ngành, xây dựng phòng thử nghiệm đạt chuẩn quốc tế và chủ động liên kết chuỗi cung ứng với các tập đoàn trong nước và FDI để từng bước tham gia sâu vào chuỗi giá trị năng lượng toàn cầu.

Đồng quan điểm, ông Chu Việt Cường nhấn mạnh, việc phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành năng lượng không chỉ là yếu tố, yêu cầu tất yếu để đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia mà còn là bước đi chiến lược để khẳng định là Việt Nam có thể làm chủ chuỗi giá trị công nghiệp công nghệ mới và tiến tới là sẽ đạt mục tiêu NetZero năm 2050. “Với sự hỗ trợ của Nhà nước, sự thay đổi mạnh mẽ, chủ động từ doanh nghiệp và với nền tảng khoa học - công nghệ từ các viện, trường nghiên cứu thì tôi tin rằng trong những năm tới Việt Nam sẽ vươn lên mạnh mẽ và tự tin hội nhập sâu với thế giới trong ngành năng lượng” - đại diện Cục Công nghiệp nói.

Theo Điều chỉnh Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn 2050 (Quy hoạch điện VIII điều chỉnh), đến năm 2030, tổng công suất nguồn điện của Việt Nam dự kiến đạt hơn 236.000 MW, gấp hơn 3 lần hiện nay, với tỷ trọng năng lượng tái tạo chiếm khoảng 36%.

Cùng với đó, nhiều dự án nhiệt điện, khí điện, thủy điện, điện LNG, điện gió ngoài khơi được triển khai trên khắp cả nước. Mỗi dự án đều cần hàng trăm nghìn chi tiết kỹ thuật, kết cấu thép, thiết bị cơ khí, cáp điện, van, máy biến áp, tua-bin, và hệ thống điều khiển - những sản phẩm mà ngành công nghiệp hỗ trợ trong nước hoàn toàn có thể tham gia sản xuất. Các chuyên gia nhận định, riêng mảng năng lượng tái tạo có thể tạo ra thị trường hàng tỷ USD cho công nghiệp hỗ trợ Việt Nam trong 10 năm tới.


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Tin liên quan