Đề án 1 triệu héc ta lúa chất lượng cao tìm cách làm khác biệt để phát triển
Sau gần hai năm triển khai, Đề án 1 triệu héc ta lúa chất lượng cao, phát thải thấp tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đã xác lập hơn 942.000 héc ta vùng chuyên canh, thu hút 1.230 hợp tác xã và 210 doanh nghiệp. Tổng nhu cầu vốn cho liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ và xây dựng nền tảng số MRV (Measurement, Reporting and Verification, tức hệ thống đo lường, báo cáo và thẩm định phát thải khí nhà kính) ước khoảng 83.000 tỷ đồng. Vấn đề đặt ra: làm sao “khơi” dòng vốn cho Đề án?
Thị trường gạo toàn cầu thay đổi
Thương mại gạo toàn cầu, trong đó có Việt Nam, thời gian gần đây chứng kiến sự sụt giảm rất mạnh về giá bán của loại lương thực chủ lực này. Theo thống kê chỉ số giá gạo trắng (Oryza White Rice Index) cho thấy, năm 2024 giá xuất khẩu gạo bình quân của Việt Nam đạt khoảng 630 USD/tấn, tăng 23% so với năm 2023. Tuy nhiên, tính đến ngày 15/10/2025, bình quân giá xuất khẩu gạo của Việt Nam chỉ còn 510 USD/tấn, giảm khoảng 112 USD/tấn so với cùng kỳ năm ngoái và giảm đến 120 USD/tấn so với bình quân cả năm 2024.
Xu hướng sụt giảm của giá gạo trắng toàn cầu chịu tác động rất lớn bởi yếu tố cung - cầu, cụ thể là thời điểm tháng 7/2023 khi Ấn Độ ban hành lệnh cấm xuất khẩu một số loại gạo, đã lập tức kéo giá lương thực chủ lực này tăng cao sau đó. Tuy nhiên, đến cuối tháng 9 năm ngoái, khi lệnh cấm xuất khẩu gạo của Ấn Độ được dỡ bỏ, nguồn cung được nới lỏng, khiến giá gạo toàn cầu giảm mạnh và kéo dài đến thời điểm hiện tại.
Tất nhiên, Việt Nam cũng không tránh khỏi xu hướng này, nhất là khi Philippines - quốc gia hiện chiếm khoảng 40% tổng lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam - ban hành lệnh cấm nhập khẩu từ ngày 1/9 và kéo dài đến hết tháng 10/2025, thậm chí dự kiến mở rộng các biện pháp nhằm bảo vệ nông dân sản xuất lúa trong nước khiến giá lúa gạo cả trong nước lẫn xuất khẩu của Việt Nam bị ảnh hưởng.
Tìm lối đi khác biệt để phát triển
Sau gần 2 năm triển khai, Đề án 1 triệu héc ta lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đã xác định được hơn 942.000 héc ta vùng chuyên canh, thu hút 1.230 hợp tác xã và 210 doanh nghiệp tham gia. Theo dữ liệu từ Cục trồng trọt, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, lượng giống gieo sạ đã giảm xuống còn 60-70 kg/héc ta so với mức truyền thống nông dân áp dụng là 120-150 kg/héc ta; lượng phân đạm từ 120-130 kg/héc ta giảm xuống còn 75-90 kg/héc ta (tuỳ phương pháp gieo sạ).
Từ việc giảm giống và phân đã giúp giảm đáng kể sâu bệnh hại trên đồng ruộng, cho nên, số lần phun thuốc bảo vệ thực vật giảm ít nhất 1 lần/vụ và nhiều nhất đến 4 lần/vụ so với mô hình đối chứng.
Kết quả cho thấy, năng suất lúa khi áp dụng quy trình kỹ thuật canh tác của Đề án 1 triệu héc ta cao hơn mô hình đối chứng. Điều này, giúp lợi nhuận của người nông dân thu được tăng lên đáng kể.
Liên quan đến nguồn vốn cho Đề án, thời gian gần đây, phía ngân hàng đã cam kết đảm bảo đủ vốn triển khai với lãi suất thấp hơn ít nhất 1% so với lãi suất áp dụng của cùng kỳ hạn.

Ảnh minh họa
Tuy nhiên, theo bà Nguyễn Thị Hoàng Yến, Phó Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, thách thức lớn nhất hiện nay là khoảng trống tín nhiệm của hợp tác xã khi nhiều đơn vị thiếu hồ sơ số hóa về vùng nguyên liệu, hợp đồng liên kết, lịch sử sản xuất, tiêu thụ. Đây là những vấn đề khó thuyết phục tổ chức tín dụng duyệt tài trợ vốn.
Trong khi đó, ThS. Nguyễn Văn Hoàng, Phó Giám đốc Agribank Chi nhánh An Giang chia sẻ, nguồn vốn từ phía ngân hàng luôn sẵn sàng cung cấp cho chương trình phát triển lúa chất lượng cao, phát thải thấp. Thế nhưng, những “nút thắt” về dữ liệu và hồ sơ của hợp tác xã khiến việc tiếp cận vốn gặp nhiều khó khăn.
Theo số liệu thống kê từ Ngân hàng Nhà nước Khu vực 13, Khu vực 14 và Khu vực 15 cho thấy, đến cuối tháng 10/2025, dư nợ tín dụng ngành lúa gạo của 3 Ngân hàng Khu vực lần lượt là:
Ngành Ngân hàng Khu vực 13 đạt dư nợ tín dụng là 61.653 tỷ đồng, tăng 13,7% so với cuối năm 2024, chiếm 12,1% tổng dư nợ tín dụng Khu vực 13, đáp ứng nhu cầu vốn cho 128.066 khách hàng còn dư nợ. Trong đó: tỉnh Đồng Tháp tăng 17,8%, chiếm tỷ lệ 53%; Tây Ninh tăng 10%, chiếm tỷ 47%. Cho vay chủ yếu phục vụ mục đích thu mua, tiêu thụ chiếm 71,3% tổng dư nợ lúa gạo; chế biến bảo quản chiếm 17,8%; chi phí trồng trọt chiếm 10,9%.
Ngành ngân hàng Khu vực 14 đạt dư nợ tín dụng là 37.800 tỷ đồng, chiếm 7,68% tổng dư nợ, tăng 11,46% so với tháng 12/2024.
Ngành Ngân hàng Khu vực 15 đạt dư nợ tín dụng là 31.842 tỷ đồng, chiếm 8,1% tổng dư nợ tín dụng Khu vực 15.
Trên thực tế bà Nguyễn Thị Hoàng Yến cho rằng, việc tiếp cận nguồn vốn vay từ phía ngân hàng vẫn gặp nhiều thách thức, trong đó “nút thắt tín nhiệm” của hợp tác xã - một tác nhân quan trọng của Đề án - được xác định là nguyên nhân lớn.
Bà Yến phân tích thêm, điều kiện vay và năng lực hồ sơ của các hợp tác xã hiện chưa đáp ứng yêu cầu của ngân hàng, như xếp hạng tín dụng, lịch sử nợ tốt, chuẩn mực kế toán, trong khi nhiều đơn vị chưa có báo cáo tài chính được kiểm toán hay thiếu bộ hồ sơ chuẩn (hợp đồng, dữ liệu canh tác) dẫn tới tỷ lệ được phê duyệt thấp so với nhu cầu.
“Một số ngân hàng thương mại đã chủ động thiết kế chương trình cho vay liên kết. Tuy nhiên, nút thắt dữ liệu và tài sản bảo đảm tiền vay khiến giải ngân chưa đạt kỳ vọng, nhất là với khoản vay đầu tư cơ giới hóa” bà Yến minh chứng thêm.
Để tiếp cận được nguồn tín dụng, vấn đề tiên quyết là chuẩn hóa hồ sơ và dữ liệu của hợp tác xã.
Theo ThS. Nguyễn Văn Hoàng, ngân hàng cần “đọc - chấm - quyết” khoản vay nhanh hơn nên hồ sơ của hợp tác xã phải minh bạch và có thể truy xuất. “Do đó, việc số hóa từ định danh vùng nguyên liệu, hợp đồng liên kết đến nhật ký sản xuất và chỉ số tài chính là yêu cầu cần thiết”, ThS. Nguyễn Văn Hoàng nhấn mạnh và cho biết, khi dữ liệu đầy đủ, việc đánh giá tín nhiệm sẽ thuận lợi hơn.
TS Phạm Minh Tú, Giám đốc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Khu vực 13 cho biết, nguồn tín dụng luôn sẵn sàng vốn cho Đề án 1 triệu héc ta lúa chất lượng cao, phát thải thấp, thậm chí không giới hạn quy mô cho vay. Tuy nhiên, điều kiện là khách hàng phải có tên trong danh sách do Bộ Nông nghiệp và Môi trường công bố và có bản đăng ký hợp lệ gửi cho tổ chức tín dụng. Thực tế, nhiều hợp tác xã chưa hoàn thiện hồ sơ, nên vốn dù có vẫn “tắc” ở khâu thủ tục.
Để tháo gỡ khó khăn, TS. Phạm Minh Tú cho rằng, chính quyền địa phương cần sớm ban hành quyết định xác định vùng chuyên canh, danh sách hộ tham gia, đồng thời, lồng ghép nguồn kinh phí sự nghiệp địa phương vào triển khai Đề án. Đặc biệt, cần có cơ chế tín dụng linh hoạt hơn, cho phép thế chấp bằng hợp đồng liên kết hoặc sản phẩm thay vì chỉ dựa vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Khi dòng vốn được “mở khóa”, các hợp tác xã và doanh nghiệp trong chuỗi sản xuất, tiêu thụ lúa gạo sẽ có cơ hội tiếp cận nguồn lực, mở rộng sản xuất bền vững, góp phần hình thành chuỗi giá trị lúa gạo xanh của Đồng bằng sông Cửu Long..
Trên cơ sở đó, 3 trụ cột ưu tiên tháo gỡ, đó là số hóa chuỗi giá trị lúa gạo; thúc đẩy tín dụng xanh và bảo hiểm nông nghiệp. Đồng thời, phát triển hợp tác công - tư để huy động thêm nguồn lực từ doanh nghiệp, ngân hàng và các quỹ đầu tư.



